4. Số phận những người thân của Đề Thám qua bưu ảnh


Trước các cuộc vây quét tiêu diệt gắt gao của quân Pháp, lực lượng nghĩa quân ngày càng giảm sút. Đến cuối năm 1909, hầu hết các tướng lĩnh đã hi sinh, hoặc sa vào tay giặc, như Cả Trọng, Cả Huỳnh, Cả Tuyển, Ba Biều, bà Ba Cẩn... Một số người ra hàng như: Cả Rinh, Cai Sơn... Ngày 10-2-1913, Đề Thám bị giết hại tại một khu rừng cách chợ Gồ 2 km. Sự kiện này đánh dấu sự thất bại hoàn toàn của phong trào nông dân Yên Thế.

3331b

3331. Ba Biểu - một thủ lĩnh hung dữ của Đề Thám, chết ngày 16 tháng 8 năm 1909
 3332

3332. Ba Biểu - một thủ lĩnh của Đề Thám bị bêu sau khi chết để nhận dạng (đội quân ở Phúc Yên 1909)
 
093_0101

3332. Ba Biểu - một thủ lĩnh của Đề Thám bị bêu sau khi chết để nhận dạng (đội quân ở Phúc Yên 1909)

 904_001

454_001

3118. Thủ cấp cháu của Đề Thám bị giết ở Pin Yên, tháng 9 năm 1909

3344k

3344. Thủ cấp của một phiến quân bị bêu để các thân hào nhận dạng

3336

3336. Một nghĩa quân già của Đề Thám và Quynh con rể ông ta ra hàng

3337p

3337. Hai tù binh. Người gầy có tên là Chi, cai của toán thợ.Thoát chết và bị bắt ở trong rừng.

3314b

3314. Ngôi chùa ăn thề. Lính Pháp ngạo nghễ trên bên ngôi chùa, nơi các nghĩa quân của Đề Thám từng tổ chức lễ tuyên thề


3346h

"Người phụ nữ có tên Thị Nho, vợ ba của Đề Thám, cùng con gái Thị Thế". Đề Thám có năm vợ. Trong số đó ông quý nhất bà vợ ba, Đặng Thị Nhu (hay Nho), thường gọi là bà Ba Cẩn. Đề Thám hơn bà 18 tuổi. Ông lấy bà khỏang năm 1893 -1894, khi bà chưa đầy đôi mươi. Bà là con dòng dõi nhà nho, tài sắc vẹn toàn và sau này trở thành nhân vật quan trọng, một chỗ dựa vững chắc của Đề Thám. Bà sinh hạ cho ông một gái tên là Hoàng Thị Thế (1900) và một trai Hoàng Vi Phồn (1908).

Vừa là vợ và là cộng sự, bà Ba Cẩn đã sát cánh cùng Đề Thám bàn định nhiều kế hoạch cho công cuộc kháng chiến lâu dài và gian khó. Bà lo việc hậu cần, đảm bảo sinh hoạt, mua sắm đạn dược cho nghĩa quân. Khi có chiến trận, bà ở bên Đề Thám cùng chiến đấu...Những ngày chiến đấu cuối cùng của bà được kể như sau: Ngày 17 tháng 11 năm 1909, Đề Thám cùng tàn quân về đến Yên Thế, thì quân của Tiểu đoàn trưởng Bonifacy cũng kéo đến bao vây Nhã Nam. Quân Pháp cùng các cộng sự người Việt tăng cường khủng bố, làm cho sự tiếp tế bị tê liệt...Ngày 1 tháng 12 bà Ba Cẩn bị trung đội Coucron đi tuần bắt được gần đồn chợ Gồ. Hôm sau, ông Thám dẫn 5 nghĩa quân đi cứu bà, thì lọt vào ổ phục kích lúc. Một nghĩa quân hy sinh, nhưng Đề Thám chạy thoát được. Ngày 24 tháng 2 năm 1910, 78 nghĩa quân, trong đó có bà Ba Cẩn bị đối phương mang về giam ở Hỏa Lò rồi bị án đày sang Guyane (Nam Mỹ). Dọc đường, thừa lúc quân canh sơ ý, bà nhảy xuống biển tự tử ngày 25 tháng 12 năm 1910.

3354

3354. "Vợ ba của Đề Thám bị bắt ở Nhã Nam". Khung cảnh trong hai bức ảnh trên được chụp tại một nơi. Nếu thời điểm chụp ảnh đúng như ghi chú thì đó là ngày 1 tháng 12 năm 1909

Hoàng Thị Thế - người con gái duy nhất của Đề Thám khi đó khoảng 8 - 9 tuổi. Số phận của cô bị đưa đẩy như sau: Khi đồn Phồn Xương bị vỡ, người chị dâu cõng cô đi lánh nạn thì gặp một toán binh lính do một viên đại úy người Pháp chỉ huy. Cô được đưa ngay về Nhã Nam cho Boucher như một món chiến lợi phẩm đáng giá. Vì thương con gái bé bỏng của chủ tướng mà Cai Mễ, một nghĩa quân già, đã đến gặp Đại lý Nhã Nam Bouchet xin hàng chỉ với một điều kiện là được trông nom cô Thế. Người con của thủ lĩnh Yên Thế được đưa về Phủ Lạng Thương, rồi tiếp đó xuống Hà Nội. Cô được Paul Doumer toàn quyền Pháp tại Đông dương đỡ đầu và cho sang Pháp ăn học.

Tại sao người Pháp đưa cô Thế sang Pháp nuôi dạy? Vì muốn xoa dịu sự phẫn nộ của dân chúng? Vì sự kính trọng dành cho cha cô? Trong hồi kí của mình sau này, bà Hoàng Thị Thế kể, trong thời gian sống tại Pháp tại Pháp cựu toàn quyền Đông Dương Paul Doumer (sau này trở thành tổng thống Pháp) đã nhiều lần đến thăm bà. Một lần, chính Tổng thống Pháp P. Doumer đã phải thừa nhận: “Không có lòng độ lượng của cha cô thì Galliéni (một vị tướng lẫy lừng của Pháp), không thể cứu được Paris… Ông Đề Thám đã vượt hơn hẳn chúng tôi. Ông ta bị gọi là giặc nhưng chính ông ta lại là người thượng võ…Đề Thám đúng là một con người ra con người.”. 

Khi lớn lên, cô Thế trở thành một thiếu nữ xinh đẹp và duyên dáng. Danh tiếng cùng với nhan sắc đã đưa cô đến với màn bạc Pháp. Cô được mời thủ vai công chúa trong một Bộ phim La lettre, phiên bản thứ hai của bộ phim The Letter sản suất trước đó một năm tại Mỹ. Báo chí Pháp gọi cô là "công chúa Tàu". Ngoài La lettre, Hoàng Thị Thế còn xuất hiện trong La Donna Bianca (1930) và Le secret de l Emeraude (1935)

Năm 1925, cô Thế về nước làm việc trong phủ Thống Sứ Bắc Kỳ. Cô luôn luôn tìm cơ hội giúp đỡ những đồng bào cơ cực. Người Pháp không khỏi lo ngại và đưa cô trở lại Pháp vào năm 1927. Năm 1930, bà quyết định lên xe hoa cùng ông Robert Bourge`s, một nhà độc quyền sản xuất rượu vang hàng đầu tại vùng Bordeaux. Họ có với nhau một câu con trai tên là Jean Marie. Sau đó gia đình ông Bourges vốn là tư bản nghe tin bà Thế có tham gia vào những hoạt động phong trào cộng sản tại Pháp, hai người li dị. Bà Thế tiếp tục sống những năm tháng tha phương nơi đất khách quê người. Trong thời gian này bà đi học và trở thành một người xem tướng tay khá nổi tiếng.

Năm 1959 Ngô Đình Diệm đã cử Trần Lệ Xuân sang Pháp thuyết phục Bà Thế về Sài gòn, nhưng bà Thế lại trở về Hà Nội vào năm 1965. Bà sống ở khu tập thể Văn Chương, và mất ngày 9 tháng 12 năm 1988, được an táng tại khu di tích Yên Thế (Bắc Giang).

Người con trai út của Đề Thám -  Hoàng Văn Vi, tức Phồn, ít được biết. Ông Vi sinh năm 1908 tại đại bản doanh Phồn Xương của Đề Thám ở Yên Thế, nghĩa là khi cha mất, ông mới 5 tuổi. Khi bị Pháp bắt, ông mới 7 tuổi. Ông được giao cho án Giáp Bắc Ninh nuôi và cho đi học trường tỉnh, nhưng "mỗi bước đi tới trường đều có hai người lính đi kèm" ... Khi ông 15 tuổi, người Pháp cho ông lên Hà Nội học trường bách nghệ. Ông mê nghề máy móc, nhưng người ta chỉ cho học nghề mộc. Sau 3 năm, ông xin về quê nhà làm ăn, lấy vợ là con gái Thống Luận, một bộ tướng cũ của Đề Thám.

Trước những thông tin sai lệch về người cah, năm 1935 ông gửi cho báo ngày nay một bức thư phê phán với lời lẽ bình tĩnh, khiêm nhường:

"Kính gửi ông Giám đốc báo Ngày nay, Hà Nội.

Thưa Ngài, 

Nhân ông Văn Tước có ngỏ ý muốn viết một cuốn truyện dài về đời thầy tôi, ông Hoàng Hoa Thám, lại được ngài phái người lên hỏi tôi, tôi ấy làm cảm tạ tấm lòng tốt của ngài và ông Văn Tước. Đã có nhiều sách do mấy người Pháp viết về truyện của nhà tôi rồi. Song phần nhiều đều không nhằm hẳn vào sự thực và có ý coi thầy tôi như quân cường bạo. Thực ra, ngay chính phủ bảo hộ cũng không nỡ coi thầy tôi như tác giả các sách kia. Tôi nói thế là dựa vào bằng cớ hẳn hoi. Sự hiểu nhầm đó đối với người ngoại quốc, là lẽ cố nhiên, tôi không lấy làm lạ. Sự lạ là nay lại có những người Annam lại cứ theo những cuốn sách của mấy người ngoại quốc đó mà dịch ra, rồi cứ cho là của mình. Người ấy đã không biết coi trọng sự thật cứ thấy truyện là viết, là dịch, là đăng báo. Đó, một chuyện mới xảy ra hơn vài chục năm nay, mà họ còn hồ đồ như thế. Tôi tuy sinh sau, không được chứng kiến những chuyện của nhà tôi ra sao, song tôi đã từng chung sống với những người luôn ở bên thầy tôi, chuyện nhà tôi ra sao, những người ấy đã kể cho tôi nghe rành mạch.

Vậy xin có lời nhờ ngài cải chính trên báo những chỗ sai lầm của ông Quan Viên hiện cũng đang dịch đăng chuyện nhà tôi trên tờ Ngọ Báo.

Ngài lại làm ơn công bố lên báo để mọi người biết cho rằng thầy tôi không hề nghiện thuốc phiện theo như các sách Tây nói và bài Cầu vồng Yên Thế của Quan viên trong Ngọ Báo. Thầy tôi vì sự thù tiếp, nhà phải có bàn đèn. Người Pháp nhầm nên cho là thầy tôi nghiện đấy thôi. Còn ông Quan Viên chỉ biết phỏng theo sách Tây, không chịu khảo xét, nên cũng nhầm là phải lắm.

Kính thư Hoàng Văn Vi tức Phồn - Bắc Giang"


3348

3348. "Người vợ đầu của Cả Rinh và người vợ thứ tư của Đề Thám, em gái Cả Rinh". Vợ tư của Đề Thám là Thân Thị Quynh. Như vậy, xét về vai vế, Đề Thám vừa là cha nuôi, vừa là em rể Cả Rinh. Chi tiết này người Pháp không bịa ra để bôi nhọ Đề Thám. Mối quan hệ nhằng nhịt kiểu này không phải hiếm trong xã hội xưa.

3347

3347."Chiến dịch truy quét Đề Thám. The Mui, vợ hai của Cả Rinh (con nuôi của Đề Thám). Cũng như bố nuôi, Cả Rinh cũng đa thê. Và các bà đều là những nhan sắc.

3320

3320. "Vợ hai của Cả Rinh - thủ lĩnh phiến quân, bị bắt bởi huyện nguyên vùng Yên Thế".  Vậy đây là The Mui (có lẽ chính xác là Thị Mùi), dáng vẻ đau khổ của bà và khung cảnh xung quanh trùng hợp với bức ảnh dưới.

3321d

3321. "Nhóm người bị bắt gồm bố vợ Đề Thám, một người vợ của Cả Rinh và 8 nghĩa quân". Căn cứ vào trang phục, có thể phân biệt được những người trong ảnh: chỉ huy người Pháp, lính khố đỏ đội nón, lính dõng mặc áo sọc, những người bị bắt mặt mũi hốc hác, mệt mỏi.   

3345

3345. "Bố vợ Đề Thám bị bắt ở Kẻ Vôi ..."  Ông bị mù cả hai mắt, phải giải về Nhã Nam bằng thúng do hai người khiêng

3333b

3333. Cả Rinh và nhóm binh lính của mình ra đầu hàng ở Núi Lạng . 

3329k

3329. Ngôi chùa lớn của Đề Thám ở Chợ Gồ. Có vẻ như bình yên đang trở lại vùng đất chiến sự diễn ra suốt 26 năm 


3349

3339. Đồn canh và quang cảnh làng Nhã nam. Giành thắng lợi, người Pháp củng cố hệ thống đồn bốt của mình

3351g

3351. Chợ Gò -  Lối vào thành lũy của Đề Thám và khu đồn quân sự mới dựng thêm. Viên sĩ quan Pháp thảnh thơi đứng mhìn người phụ nữ địa phương bế con dạo chơi. Khu đồn mới xây phía xa đánh dấu việc hoàn thành công cuộc bình định vùng đất này.

3352b

3352. Đòn bốt, lô cốt căn cứ Casanova. Đời sống dân chúng trở lại bình thường

Nhận xét

  1. Một blog cực kỳ có giá trị
    Bác ở Đảo Guyane không phải ở Nam Mỹ đâu ạ, nó ở Thái Bình Dương, nay là căn cứ quân sự của Mỹ

    Trả lờiXóa
  2. Vâng đúng bác ạ, cháu nhầm với đảo Guam

    Trả lờiXóa
  3. Cảm ơn anh Nhân đã cất công sưu tầm những tư liệu quý hiếm. Xin phép anh cho tôi mang về blog nhà lưu trử, tất nhiên là dẫn nguồn đến trang VNHA xưa.

    Trả lờiXóa

Đăng nhận xét